HỎI: Thưa Thầy cho con hỏi, khi con đang ở trạng thái bình thường không tham, không sân, vẫn sáng suốt, định tĩnh, trong lành nhưng không hiểu từ đâu có một cảm giác bất an ập đến. Con cũng cố gắng quan sát nó nhưng con thấy cảm giác bất an ngày càng mạnh, cơ thể rất khó chịu chỉ có cách đi làm cái gì đó một lúc thì cơn bất an mới qua đi. Những chuyện như vậy xảy ra khá thường xuyên, xin thầy chỉ giúp con trong trường hợp như vậy có phương pháp nào hóa giải không ạ.
Thầy Viên Minh trả lời:
Những bất an đó chính là những xung động vô thức. Có khá nhiều tập khí được đưa vào bhavanga trong tình trạng thiếu tỉnh thức nên khi nó khởi lên dưới hình thức những khuynh hướng xung động thì mình không biết được nguyên cớ từ đâu. Nếu nó xuất hiện qua thân thì chiêm nghiệm thân, qua thọ thì chiêm nghiệm thọ, qua tâm thì chiêm nghiệm tâm v.v... để thấy rõ những cảm xúc ấy như chúng là... Đó cũng là cách mà phân tâm học gọi là hữu thức hóa vô thức để đưa những xung động vô thức ấy ra ánh sáng của tỉnh giác.
HỎI: Như vậy khi con đang ngồi đây bất giác một ý nghĩ về việc gì đó, hay là nghĩ về việc trong tương lai, nhưng rồi con nhận ra điều đó, như thế có bị coi là "lấy đá đè cỏ" hay "làm nó ẩn vào vô thức" không ạ? Và nhận ra như thế có được gọi là "tỉnh giác" không?
TRẢ LỜI:
Nếu sự nhận ra ấy là trực nhận trung thực khách quan, không bị xen vào nhận định chủ quan của cái Ta tư tưởng thì đó chính là tỉnh giác. Chính sự tỉnh giác này giúp chuyển hóa ý nghĩ khởi lên từ vô thức, tức nói theo Phân tâm học thì đó là hữu thức hóa vô thức, nghĩa là giúp ý nghĩ đó thoát khỏi vô thức chứ không còn bị dồn nén trong vô thức nữa.
HỎI: Theo con hiểu tiềm thức hay vô thức là những thứ nằm bên dưới thúc đẩy dẫn dắt chúng ta hành xử theo điều đó, nó có thể là các cảm nhận, nhận thức, hiểu biết, muốn hay không muốn một điều gì đó và thường chúng ta biết rất ít về hoạt động của nó. Và tiềm thức hay vô thức chỉ có thể thấy được phần nào thông qua việc quan sát học hỏi từ các cảm xúc tư tưởng hay qua những ứng xử, hành động của chúng ta trong cuộc sống.
Con hiểu về tiềm thức và vô thức là như vậy. Con cũng đọc được một ít sách có nói về điều này nhưng chưa thấy giải đáp nào cặn kẽ. Con mong được thầy chỉ bảo thêm về điều này.
TRẢ LỜI:
Theo Vi Diệu Pháp, tâm thường ở dưới 4 tình trạng khác nhau:
1) Tâm dưới dạng tri giác của 5 giác quan, tương đương Tiền ngũ thức trong Luận Duy Thức.
2) Tâm dưới dạng ý giới tương đương với Mạt-na thức trong Luận Duy Thức.
3) Tâm duới dạng ý thức, cùng tên gọi trong Luận Duy Thức.
4) Tâm dưới dạng tiềm thức gọi là bhavanga (hữu phần) tương đương với A-lại-da thức trong Luận Duy Thức.
Trong 4 dạng tâm thức nói trên chỉ có ý thức là không phải vô thức, ba dạng còn lại được xem như tiềm thức hoặc vô thức nếu không có ý thức hỗ trợ. Năm thức giác quan tuy gọi là thức nhưng là cái biết vô nhân gần như không biết vì chưa có ý thức, thuộc tri giác máy móc được gọi là trực giác giác quan. Các tâm ý giới cũng vậy, chỉ nhận định một cách tự động, và máy móc (vô nhân), hai dạng tâm thức vừa rồi có thể xem là tiền ý thức chứ chưa phải là ý thức. Hữu phần mới thật sự là vô thức hiểu theo nghĩa không có ý thức, hay không ý thức được.
Vô thức có hai nghĩa:
1) Không cần ý thức, bao gồm những hoạt động tự vận hành một cách máy móc dù không ý thức vẫn tiến hành được.
2) Không có ý thức, như khi làm một việc gì mà không tự ý thức được.
Tóm lại, có những hoạt động cần ý thức thì phải ý thức rõ ràng, nhưng có những hoạt động không cần ý thức thì nên để pháp tự vận hành không nên xen ý thức vào quá nhiều, nhất là những hoạt động ý thức chủ quan.
Chánh niệm tỉnh giác chính là cách tốt nhất để hữu thức hóa vô thức, mà môn Phân Tâm Học của Sigmund Freud muốn nói đến. Chánh Niệm tỉnh giác giúp chúng ta phát hiện ra những hoạt động thúc đẩy từ vô thức mà Phật giáo gọi là những phiền não ngủ ngầm (Anusaya kilesa), và Phân Tâm học gọi là những khuynh hướng xung động (impulsive tendency). Khi chánh niệm tỉnh giác đã thấy ra toàn bộ khuynh hướng xung động này thì toàn bộ khối vô thức trong Bhavanga đã bị hữu thức hóa và những hoạt động vô thức hữu ích và tự nhiên sẽ tồn tại, còn những hoạt động vô thức dưới dạng phiền não ngủ ngầm đều bị chuyển hóa hay vô hiệu hóa.
HỎI: Xin Thầy giải thích thêm về vô thức, con chưa hiểu rõ. Con chỉ hiểu vô thức tức là không ý thức, vì diệt vọng tưởng bằng cách đè bẹp không quan sát tự nhiên như nó đang là nên vô thức cứ xuất hiện trong vô minh. Nếu vô thức xuất hiện mà quan sát bình đẳng trong sự tỉnh giác không quên thì những gì xảy ra trong vô thức là pháp đang vận hành có đúng không ạ?
TRẢ LỜI: Con nói đúng, chỉ cần tánh biết thường soi chiếu thì tự nhiên thấy rõ hoạt động của thân - thọ - tâm - pháp tức là đang "hữu thức hóa vô thức". Vì vô thức thường xuất hiện qua những hoạt động trên 4 lãnh vực thân, thọ, tâm, pháp nên đức Phật dạy chỉ cần thường thận trọng, chú tâm, quan sát chúng khi chúng xuất hiện một cách tự nhiên thì sẽ không gia thêm vô thức vào vô thức nữa, ngược lại đó là cách duy nhất để chuyển hóa vô thức, hay nói cách khác là đưa vô thức ra ánh sáng.
HỎI: Dạ thưa Thầy, trong quá trình thiền tập, vịệc hữu thức hóa vô thức có ích lợi và cần thiết không ạ?
TRẢ LỜI:
Không phải lợi hay không mà là tất yếu. Dù vô thức từ tiềm thức khởi lên (như những khuynh hướng xung động), hay vô thức đang hiện hành do ý thức bỏ quên đều cần hữu thức hoá, nếu không thì lại chìm vào... vô thức, lúc đó nó đồng nghĩa với vô minh.
HỎI: Gần đây, khi ngồi thiền những suy nghĩ khởi lên trong tâm có ít đi, song khi ngủ nó lại khởi lên nhiều hơn. Và con có thể cảm nhận được nó. Những suy nghĩ này tới suy nghĩ khác cứ nối tiếp nhau như từng đợt sóng. Nhiều khi con lại không hài lòng về việc này, con biết như vậy là còn mong cầu một trạng thái nào đó an ổn hơn. Nhưng con vẫn còn hoài nghi nhiều về điều này. Con xin Thầy giúp con được sáng tỏ.
TRẢ LỜI:
Có thể là trong khi ngồi thiền do mong cầu trạng thái yên ổn nên con đã ít nhiều dồn nén những cảm xúc hay tư tưởng vào tiềm thức, vì vậy mà con ít thấy có cảm xúc hoặc tư tưởng khởi lên. Chính những cảm xúc và tư tưởng bị dồn nén này đã trở thành tập khí hay những khuynh hướng vô thức, tạo lực xung động để xuất hiện thành những giấc chiêm bao. Và ngay cả ban ngày khi con không ngồi thiền để ổn định tâm, thì những xung động này vẫn xuất hiện dưới dạng những tạp niệm (mộng mị ban ngày).
Con nên trở về trọn vẹn trong sáng với những hoạt động hàng ngày nhiều hơn để hữu thức hoá những xung động vô thức và nên bỏ dần thói quen ngồi thiền với ý dồn nén để được yên ổn. Thiền là để thấy ra cái thực (thực tánh pháp) chứ không phải để bám trụ hay đạt được bất kỳ trạng thái nào. Thay vì cố gắng định tâm để rồi vô tình tạo ra dồn nén, con chỉ cần buông thư cho thân tâm tự ổn định một cách tự nhiên thì con dễ dàng vào định sâu mà không tạo ra sự dồn nén nào của cái ta ý chí.
HỎI: Mỗi khi ngồi tĩnh lặng để quán hơi thở hay quán tâm mình con thường hay bị mất chánh niệm. Khi có một suy nghĩ (thất niệm) khởi lên con không nhận ra được nó ngay, chánh niệm chỉ trở lại khi dòng suy nghĩ đã "đi được một đoạn". Thưa Thầy, như vậy có phải chánh niệm của con còn quá yếu? Có phương pháp nào để tập luyện gia tăng chánh niệm không?
TRẢ LỜI:
Phương pháp đã có sẵn nơi mỗi người, biết sử dụng những yếu tố vốn đã đầy đủ nơi chính mình (tự tánh) là được, đừng vay mượn hay lệ thuộc vào bất cứ phương pháp nào của người khác. Do tập khí đã tích lũy lâu ngày trong Bhavanga nên nó sẽ khởi lên như những xung động vô thức, nếu cái tâm thiếu tinh tấn chánh niệm tỉnh giác thì bị dòng thác tập khí này cuốn đi mà không hề hay biết. Đó chính là vô minh nên Phật dạy phải thường quay lại thấy nó như nó đang là (Ehipassiko), thấy tức là minh. Điều này Phân Tâm Học gọi là hữu thức hoá vô thức.
Lúc đầu bị vô thức cuốn đi xa rồi mới ý thức lại được, nhưng đừng vội vàng tìm cách xử lý, lấy hay bỏ, vì đó là thái độ tham sân si của bản ngã lý trí, chỉ đẩy tập khí vào vô thức để nuôi lớn nó thêm thôi. Cứ nhẫn nại mà trở về thấy nó tức đang chuyển hoá vô thức thành hữu thức một cách tự nhiên.
Một khối tập khí lớn lao như vậy mà muốn giải quyết được ngay là điều không thể. Đức Phật từ khi khởi tu phải mất 20 a-tăng-kỳ 100 ngàn đại kiếp, một con số không đếm được, mới hoàn toàn Giác Ngộ, còn chúng ta thì cứ hấp tấp muốn thành Phật liền nên mới mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử. Khởi tu giống như học mẫu giáo nếu không muốn đánh vần sai lên sai xuống mà muốn đọc được ngay mới lạ, đúng không?
Cứ từ từ mà học bài học tập khí hay phiền não đó đi, chính nó đang giúp con phát huy chánh niệm tĩnh giác, sao con lại muốn có phưong pháp diệt nó đi? Không có nó thì không bao giờ khai mở được trí tuệ nơi tánh biết của tự tâm con. Hãy nhớ "quay về là bến", đừng để rơi vào trong quỹ đạo của cái ngã lý trí luôn lăng xăng cho là, sẽ là, phải là... để rồi không bao giờ thấy được Sự Thật.
HỎI: Thưa Thầy, làm sao Chánh niệm trong lúc ta đang ngủ, đêm nào con cũng nằm mơ cả, mộng lành cũng có, mộng dữ cũng có, cho nên con rất sợ ngủ, có phải nghiệp con rất nặng không Thầy?
TRẢ LỜI:
Nếu ban ngày con chánh niệm tỉnh giác tốt thì vô thức của con sẽ được chuyển hóa tức là hữu thức hóa vô thức. Khi vô thức được chuyển hóa, con sẽ không còn chiêm bao mộng mị nữa. Và ban đêm dù có mộng thì trong giấc mộng, tâm thức con vẫn có chánh niệm tỉnh giác (mộng trung ý thức). Vì vậy trước khi ngủ con cần nên chánh niệm tỉnh giác với tâm buông xả là được.
Trích Hỏi & Đáp tại trungtamhotong.org
0 Nhận xét