Bài viết

Sự tích Đức Phật Thích Ca Mâu Ni

5/17/2011 01:24:00 CH

Một vị Phật ra đời là một nhân duyên lớn rất hiếm có, là một niềm vui vô tận cho tất cả muôn loài chúng sanh. Ðức Phật là bậc Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, có trí tuệ và lòng từ bi rộng lớn cùng tột, vì thông cảm nổi khổ triền-miên vô bờ bến của chúng sanh mê lầm nên ngài dùng phương tiện thị hiện đản sanh để chỉ dạy và dìu dắt chúng sanh ra khỏi vòng sanh tử luân hồi, đạt đến niết-bàn an-lạc thanh-tịnh.


Theo kinh Trường-A-Hàm, mục Sơ-Ðại-Bản-Duyên kể lại, thì ở cõi Ta-Bà này đã có 6 vị Phật ra đời trước đức Phật Thích-Ca-Mâu-Ni. Thuộc kiếp Trang-Nghiêm có các vị Phật Tỳ-Bà-Thi (Vipassin), Thi-Khí (Sikhin) và Tỳ-Xá-Phù (Visvabhu, Vessabhu). Thuộc kiếp Hiền có các vị Phật Câu-Lưu-Tôn (Kakucchandha), Câu-Na-Hàm (Konagamana) và Ca-Diếp (Kassapa), rồi mới đến Thích-Ca-Mâu-Ni (Sakyamuni).

Tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni

Ðến lúc Phật Kassapa (Ca-Diếp) ra đời, nhằm Hiền-kiếp thứ chín, 2 kiếp trước của Đức Phật Thích Ca là Bồ-tát Sumedha (Thiện-Huệ) tái sanh làm thái tử Vessantara (Visvantara, Hộ Minh), chuyên thực hành hạnh bố thí từ lúc ấu thơ; khi lớn lên làm vua, rồi xuất gia theo Phật Ca-Diếp và trở thành Bồ-tát Hộ Minh(Vessantara) (còn gọi là Svetaketu). Nhờ công hạnh đầy đủ nên khi lâm chung Bồ-tát Vessantara được sanh về cõi trời Ðâu-Suất (Tusita) làm Bồ-tát bổ-xứ, lãnh đạo chư Thiên cõi này và diễn thuyết pháp mầu cho Thiên chúng nghe. Ngài ở Ðâu-Suất bốn ngàn năm, dùng pháp tướng[9] để giáo-hóa chúng sinh.

Một hôm ngài nhìn xuống thế-gian thấy chúng sinh phần nhiều chỉ đua nhau tạo ác, chìm đắm trong tà-kiến, không biết tin nhân quả tội phước, sống đau khổ về thể-xác lẫn tinh-thần, chết bị đọa trong ba đường ác[10]. Ngài phát tâm từ-bi, nguyện giáng thế để giáo-hóa chúng sinh, mang đến ánh sáng chân-lý để cứu chúng sinh thoát khỏi sanh già bệnh chết, chứng được đạo quả niết-bàn, an lạc thanh tịnh. Ngay lúc đó toàn thân ngài phóng đại-quang-minh, đại địa mười tám tướng động, ma cung ẩn náu, mặt trời mặt trăng hết tinh quang, chấn động tất cả trời rồng tám bộ[11]. Ngài liền quan sát Trái Đất và thấy năm việc dưới đây:

1- Quan sát thời kỳ, ngài thấy tuổi thọ con người lúc bấy giờ khoảng 100 năm, rất thuận lợi; vì với thọ mạng quá dài con người không ý thức được thế nào là già chết, với thọ mạng quá ngắn thì không có đủ thời gian tu tập.

2- Quan sát lục địa, ngài chọn Jambudipa (bán đảo Ấn-độ) vì lúc bấy giờ ngôn ngử và tư tưởng triết học nơi đây được phát triển hơn hết..

3- Quan sát quốc độ, ngài chọn Majjhimadesa (Vùng Trung Ấn, thung lũng sông Hắng); vì nơi đây có nhiều nhà hiền triết và minh quân xuất hiện.

4- Quan sát chủng tộc, ngài chọn dòng dõi Sakya (Thích Ca) với vua Suddhodana (Tịnh Phạn) là người có tâm đạo nhất. Theo kinh Lalitavistara thì dòng họ này có 64 đức tính cần thiết.

5- Quan sát người có đủ đức tính làm mẹ vị Phật tương lai, ngài chọn hoàng hậu Maha-Maya; biết rằng bà chỉ còn sống thêm 10 tháng 7 ngày nữa. Theo kinh Lalitavistara thì bà Maha-Maya có 32 đức tính cần thiết.



Khi thấy cơ duyên đã đến, Bồ-tát Hộ-Minh bèn phó chúc ngôi vị lãnh đạo chư Thiên lại cho ngài Di-Lặc (Maitreya, Metteyya) làm Bồ-tát bổ xứ, rồi từ cung trời Ðâu-Suất (Tusita) giáng trần, thị hiện nhập thai tại thành Kapilavastu, xứ Sakya[12], gần chân núi Himalaya, thuộc vùng biên giới đông-bắc nước Ấn-độ và Nepal ngày nay, làm con trai của vua Suddhodana (Tịnh-Phạn), và hoàng-hậu Maha-Maya. Hoàng-tộc xứ này đều thuộc dòng-dõi SAKYA (Thích-Ca).

Các bạn xem tiếp tại đây.

Những bài viết liên quan

0 Nhận xét