Một vị Phật ra đời là một nhân duyên lớn rất hiếm có, là một niềm vui vô  tận cho tất cả muôn loài chúng sanh. Ðức Phật là bậc Vô Thượng Chánh  Ðẳng Chánh Giác, có trí tuệ và lòng từ bi rộng lớn cùng tột, vì thông  cảm nổi khổ triền-miên vô bờ bến của chúng sanh mê lầm nên ngài dùng  phương tiện thị hiện đản sanh để chỉ dạy và dìu dắt chúng sanh ra khỏi  vòng sanh tử luân hồi, đạt đến niết-bàn an-lạc thanh-tịnh.

Theo  kinh Trường-A-Hàm, mục Sơ-Ðại-Bản-Duyên kể lại, thì ở cõi Ta-Bà này đã  có 6 vị Phật ra đời trước đức Phật Thích-Ca-Mâu-Ni. Thuộc kiếp  Trang-Nghiêm có các vị Phật Tỳ-Bà-Thi (Vipassin), Thi-Khí (Sikhin) và  Tỳ-Xá-Phù (Visvabhu, Vessabhu). Thuộc kiếp Hiền có các vị Phật  Câu-Lưu-Tôn (Kakucchandha), Câu-Na-Hàm (Konagamana) và Ca-Diếp  (Kassapa), rồi mới đến Thích-Ca-Mâu-Ni (Sakyamuni).
Tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Ðến  lúc Phật Kassapa (Ca-Diếp) ra đời, nhằm Hiền-kiếp thứ chín, 2 kiếp  trước của Đức Phật Thích Ca là Bồ-tát Sumedha (Thiện-Huệ) tái sanh làm  thái tử Vessantara (Visvantara, Hộ Minh), chuyên thực hành hạnh bố thí  từ lúc ấu thơ; khi lớn lên làm vua, rồi xuất gia theo Phật Ca-Diếp và  trở thành Bồ-tát Hộ Minh(Vessantara) (còn gọi là Svetaketu). Nhờ công  hạnh đầy đủ nên khi lâm chung Bồ-tát Vessantara được sanh về cõi trời  Ðâu-Suất (Tusita) làm Bồ-tát bổ-xứ, lãnh đạo chư Thiên cõi này và diễn  thuyết pháp mầu cho Thiên chúng nghe. Ngài ở Ðâu-Suất bốn ngàn năm, dùng  pháp tướng[9] để giáo-hóa chúng sinh.
Một hôm ngài nhìn xuống  thế-gian thấy chúng sinh phần nhiều chỉ đua nhau tạo ác, chìm đắm trong  tà-kiến, không biết tin nhân quả tội phước, sống đau khổ về thể-xác lẫn  tinh-thần, chết bị đọa trong ba đường ác[10]. Ngài phát tâm từ-bi,  nguyện giáng thế để giáo-hóa chúng sinh, mang đến ánh sáng chân-lý để  cứu chúng sinh thoát khỏi sanh già bệnh chết, chứng được đạo quả  niết-bàn, an lạc thanh tịnh. Ngay lúc đó toàn thân ngài  phóng  đại-quang-minh, đại địa mười tám tướng động, ma cung ẩn náu, mặt trời  mặt trăng hết tinh quang, chấn động tất cả trời rồng tám bộ[11]. Ngài  liền quan sát Trái Đất và thấy năm việc dưới đây:
1-     Quan sát  thời kỳ, ngài thấy tuổi thọ con người lúc bấy giờ khoảng 100 năm, rất  thuận lợi; vì với thọ mạng quá dài con người không ý thức được thế nào  là già chết, với thọ mạng quá ngắn thì không có đủ thời gian tu tập.
2-      Quan sát lục địa, ngài chọn Jambudipa (bán đảo Ấn-độ) vì lúc bấy  giờ ngôn ngử và tư tưởng triết học nơi đây được phát triển hơn hết..
3-      Quan sát  quốc độ, ngài chọn Majjhimadesa (Vùng Trung Ấn, thung  lũng sông Hắng); vì nơi đây có nhiều nhà hiền triết và minh quân xuất  hiện.
4-     Quan sát chủng tộc, ngài chọn dòng dõi Sakya (Thích  Ca) với vua Suddhodana (Tịnh Phạn) là người có tâm đạo nhất. Theo kinh  Lalitavistara thì dòng họ này có 64 đức tính cần thiết.
5-      Quan sát người có đủ đức tính làm mẹ vị Phật tương lai, ngài chọn hoàng  hậu Maha-Maya; biết rằng bà chỉ còn sống thêm 10 tháng 7 ngày nữa. Theo  kinh Lalitavistara thì bà Maha-Maya có 32 đức tính cần thiết.

Khi  thấy cơ duyên đã đến, Bồ-tát Hộ-Minh bèn phó chúc ngôi vị lãnh đạo  chư  Thiên lại cho ngài Di-Lặc (Maitreya, Metteyya) làm Bồ-tát bổ xứ, rồi   từ cung trời Ðâu-Suất (Tusita) giáng trần, thị hiện nhập thai tại thành   Kapilavastu, xứ Sakya[12], gần chân núi Himalaya, thuộc vùng biên giới   đông-bắc nước Ấn-độ và Nepal ngày nay, làm con trai của vua Suddhodana   (Tịnh-Phạn), và hoàng-hậu Maha-Maya. Hoàng-tộc xứ này đều thuộc  dòng-dõi  SAKYA (Thích-Ca).
Các bạn xem tiếp tại đây.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
0 Nhận xét