Bài viết

Thói quen phân biệt nhị nguyên

7/04/2012 02:53:00 CH

Cái tâm phân biệt của ta có thể là một chướng ngại. Ví dụ ta nghĩ rằng tâm nhận thức và cái thế giới thực tại mà ta đang tìm hiểu là hai thực thể có thể tách rời ra khỏi nhau mà tồn tại. Đó là vấn đề chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức. Các nhà khoa học thần kinh não bộ ưa đặt câu hỏi: “Làm thế nào mà những hoạt động vi tính của các tế bào thần kinh trong thế giới khách quan lại làm phát sinh ra được cái tâm thức chủ quan của con người?” (How come that objective computation activities of the neurons produce our subjective consciousness?)

Một phần lớn các nhà khoa học vẫn còn tin rằng có một thế giới khách quan tồn tại ngoài tâm thức. Dù ta có nhận thức nó hay không thì nó vẫn cứ tồn tại. Và như vậy có nghĩa rằng sự có mặt của thế giới thực tại khách quan kia không tùy thuộc gì vào sự có mặt của tâm thức. Đã từ lâu, các triết gia đã đặt câu hỏi là liệu có thể có một thế giới khách quan nằm ngoài tâm thức hay không? Ngay từ thế kỷ thứ 18, David Hume đã nói: “Dù rằng ta không có nền tảng chứng cớ nào để tin rằng có một thực tại khách quan bên ngoài, ta vẫn không có cách gì hơn là hành động như là cái thực tại khách quan bên ngoài đó luôn luôn có mặt.” (Although we have no ground for believing in an objective reality, we have also no choice but to act as if it is true.)

Phần lớn chúng ta đều tin rằng có một tâm thức chủ quan bên trong ta đang tìm cách vươn ra để tìm hiểu một thực tại khách quan bên ngoài (a subjective consciousnessin here reaching out to an objective world of reality out there). Cái phân biệt đó theo đạo Bụt là chướng ngại lớn nhất cho sự phát sinh của tuệ giác. Cái tâm phân biệt đó trong đạo Bụt gọi là nhị thủ (dual grasping, tiếng Phạn grahadvaya), tức là tình trạng tâm ý kẹt vào ý niệm chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức là hai thực tại khác nhau, có thể tồn tại ngoài nhau.

Nhà đạo học, nhất là nhà Phật học, được huấn luyện kỹ càng về vấn đề này: đối tượng nhận thức và chủ thể nhận thức nương vào nhau mà phát khởi cùng một lúc, chủ thể nhận thức và đối tượng không thể có mặt cái này trước cái kia sau, hoặc độc lập với nhau. Trong tất cả các trường phái Phật học, thế giới vật chất trong đó có hình hài năm giác quan cùng với các cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức (gọi tắt là năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức) đều được nhận thức là đối tượng của tâm thức (pháp, dharma, object of mind). Đối tượng tâm thức biểu hiện một lần với tâm thức, chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức nương vào nhau mà phát hiện một lần, tồn tại trong một sát na (giây lát ngắn nhất) và làm nền tảng cho sự phát sinh nhận thức của sát na kế tiếp. Đó gọi là nguyên tắc câu sinh (cùng sinh ra một lần,sahajàta) hay câu hữu (cùng nương vào nhau mà có mặt một lần, cái này không có mặt thì cái kia cũng không có mặt, sahabhù). Sahabhù cũng được dịch là tương tức (interbeing). Đây là cái tương đương với cái mà khoa học gọi là chồng chập (superposition) hay vướng mắc (entanglement).

Trong đạo Bụt không có pháp (sự vật) nào có thể tồn tại như một thực thể riêng biệt, cái này có đó vì cái kia có đó, cái này nằm trong cái kia, mà mình cứ tưởng cái này nằm ngoài cái kia. Tất cả đều thuộc về một màn lưới chằng chịt. Nếu một cái có mặt thì tất cả đều có mặt, nếu một cái không có mặt thì tất cả đều không có mặt. Đó là lời tuyên bố của một vị thiền sư Việt Nam ở thế kỷ thứ 12 tên là Đạo Hạnh:

Có thì có tự mảy may,
Không thì cả thế gian này cũng không.

Tác hữu trần sa hữu,
Vi không nhất thiết không

Cái thấy của đạo Bụt là không có gì có tự tính riêng biệt, không có ngã và pháp riêng biệt. Đó là tuệ giác ngã không và pháp không. Tất cả đều nương vào nhau mà có mặt. Chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức cũng thế. Cũng giống như một tờ giấy có hai mặt trái và phải. Trái và phải nương vào nhau mà có mặt, nếu không có trái thì không có phải, nếu không có phải thì không có trái. Cho nên tách rời chủ thể nhận thức ra khỏi đối tượng nhận thức là một sai lầm căn bản. Trường phái triết học hiện tượng luận (phenomenology) cũng có chủ trương tương tợ: “Ý thức bao giờ cũng là ý thức về một cái gì. Ý thức không thể có mặt như một chủ thể không đối tượng.”(Conscience est toujours conscience de quelque chose.)

Tâm thức của chúng ta không phải là một cái gì đứng ngoài đối tượng nhận thức, độc lập với đối tượng nhận thức. Nhiều nhà khoa học đã hé thấy điều này. Họ nói: “Nhà khoa học không thể chỉ là một quan sát viên đứng bên ngoài thực tại nhìn vào thực tại, mà phải là một tham dự viên thì mới có cơ hội hiểu được bản chất của thực tại.” (Scientist should be a participant rather than an observer.) Nếu ta nhìn địa cầu như một khối vật chất, nằm ngoài ta thì ta chưa thấy được địa cầu đích thực. Ta phải thấy ta là một phần của trái đất, và trái đất đang có mặt trong ta, ta phải thấy ta là đất mẹ và đất mẹ là ta.

Nhà sinh vật học Lewis Thomas quan sát địa cầu và thấy đất Mẹ là một cơ thể, một tế bào của vũ trụ, cho nên ông ta đã viết cuốn The lives of a cell (những hình thái của sự sống trong một tế bào). Tế bào này là đất Mẹ. Khi thấy được địa cầu là một sinh mạng thì mình đã vượt được ý niệm địa cầu chỉ là vật chất. Sinh mạng là sự sống bao hàm tâm linh và tâm thức. Khi ta gọi địa cầu là đất Mẹ, ta cũng thấy địa cầu không còn là vật chất mà là một bà mẹ kỳ diệu đã sinh ra bao nhiêu chủng loại của sự sống, trong đó có con người, các vị thánh, các vị Bụt và các vị bồ tát.

Nhìn trái Đất như thế là ta nhìn bằng tính mẫn cảm, bằng tâm kính trọng, lòng khâm phục và niềm yêu thương, chứ không phải chỉ nhìn bằng trí năng. Nhìn như thế thì sự giao cảm sẽ có mặt, ranh giới giữa chủ thể và đối tượng không còn, và những cái thấy trực giác có thể xảy ra. Như vậy là ta thoát ra được cái gọng kềm của nhị thủ, nghĩa là cái tập khí đã từng làm cho ta kẹt vào cái ý niệm chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức là hai thực tại riêng biệt, cái này là chủ quan, cái kia là khách quan, và cái này phải vươn ra để tìm hiểu cái kia.

Einstein nói rằng khi quan sát vũ trụ ông ta thấy phát sinh trong lòng một nỗi niềm cảm phục và một thái độ kính ngưỡng đối với vẻ đẹp và sự hòa điệu của vũ trụ. Ông nói đó là bản chất tôn giáo trong tự thân ông. Chính tính mẫn cảm ấy, niềm cảm phục và xúc động ấy của ông với cái đẹp đẽ và mầu nhiệm của đất trời đã giúp cho ông có được những trực giác bén nhạy mà kết quả là những khám phá về môi trường liên tục (continuum) không thời gian, thuyết tương đối hẹp và thuyết tương đối phổ quát của ông.

Vì thế nếu nhìn mặt trời mà ta chỉ thấy có Hydrogen và Helium thì mặt trời đối với ta chỉ là một khối vật chất, trong khi đó những người như thánh Francois d’Assise thì thấy mặt trời là một người huynh đệ (xem bài Cantique de Frère Soleil), và những người Phật tử khi nhìn mặt trời thì thấy đó là một vị Bụt Như Lai với hào quang vô lượng và thọ mạng vô lượng (Đại Nhật Như Lai, Amitayus, Vairocana Tathàgata).

Tâm phân biệt chủ thể và đối tượng, tinh thần và vật chất, ta và không phải ta .v.v…, cái tâm ấy bị kẹt vào nhị thủ, khó thiết lập được đồng cảm và trực giác vốn rất cần cho sự phát minh và ngộ đạo. Tiếng Pháp có động từ comprendre, cũng như tiếng Anh có động từ comprehend đều có nghĩa là hiểu biết. Động từ này gồm có tiền tố com nghĩa là chung cùng, là một với nhau, và động từ chính prendre nghĩa là nắm lấy. Muốn thực sự hiểu thì phải trở thành một với cái đối tượng mình muốn tìm hiểu. Nắm lấy cái đó và trở thành một với nó, đó là nghĩa của chữ comprendre. Cũng như một hạt muối đứng trên bờ đại dương muốn biết độ mặn của nước biển. Cách duy nhất là nó nhảy vào đại dương và trở thành một với nước biển. Cái hiểu này mới thật sự là cái hiểu thấu triệt vì trong đó không còn sự phân biệt chủ thể và đối tượng, chủ quan và khách quan.

Thành ngữ “il faut être dans sa peau pour pouvoir le comprendre” cũng có nghĩa ấy. Đó là cái thấy mà đạo Bụt gọi là vô phân biệt trí (nirvikalpajnàna), một cái thấy không còn rào cản chủ thể đối tượng, thoát ly mọi so sánh mặc cảm: hơn người, thua người và bằng người. Nếu ta nhìn đất Mẹ mà thấy được ta là đất Mẹ và đất Mẹ là ta thì ta cũng vượt thoát được cái nhìn lưỡng nguyên và vượt thắng được nỗi sợ hãi về sinh tử.

langmai.org

Những bài viết liên quan

0 Nhận xét